Scholar Hub/Chủ đề/#acid béo không no/
Acid béo không no là loại axit béo mà trong phân tử không có liên kết bão hòa. Điều này gây ra sự không bền và dẫn đến tính chất lỏng của chất này. Một số ví dụ...
Acid béo không no là loại axit béo mà trong phân tử không có liên kết bão hòa. Điều này gây ra sự không bền và dẫn đến tính chất lỏng của chất này. Một số ví dụ phổ biến của acid béo không no bao gồm axit oleic, axit linoleic và axit alpha-linolenic. Acid béo không no thường được tìm thấy trong các dạng dầu thực vật và hữu cơ, và có nhiều lợi ích cho sức khỏe như giảm nguy cơ bệnh tim mạch và hỗ trợ chức năng não.
Acid béo không no là loại axit béo có một hoặc nhiều liên kết C=C không bão hòa trong phân tử của nó. Sự không bão hòa này tạo ra một hoặc nhiều chỗ trống trong cấu trúc phân tử, gây ra tính chất lỏng và dễ dàng chịu nhiệt độ cao hơn so với các loại acid béo no.
Một số ví dụ phổ biến về acid béo không no bao gồm axit oleic, axit linoleic và axit alpha-linolenic. Axit oleic là acid béo không no có một liên kết C=C duy nhất, trong khi axit linoleic và axit alpha-linolenic chứa nhiều liên kết C=C. Chúng thường được tìm thấy trong các nguồn dầu thực vật như dầu ô liu, dầu hạt lanh, dầu cây chia và dầu đậu nành.
Các acid béo không no có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Chúng thường được coi là tốt cho tim mạch vì có khả năng giảm mức cholesterol xấu (LDL) trong máu và tăng mức cholesterol tốt (HDL). Bên cạnh đó, chúng cũng có tác dụng chống viêm, hỗ trợ chức năng não, ổn định đường huyết và tăng cường hệ miễn dịch.
Ngoài ra, vì tính chất lỏng và dễ dàng bị oxy hóa của acid béo không no, chúng có thể được sử dụng làm dầu nấu ăn, dầu chiên hoặc dầu salad, đồng thời cũng có thể được sử dụng trong sản phẩm mỹ phẩm và dược phẩm.
Tuy nhiên, việc tiêu thụ quá nhiều acid béo không no cũng có thể có nhược điểm. Khi oxy hóa, chúng có thể tạo ra các gốc tự do gây tổn hại cho tế bào và gây ra sự lão hóa, sự suy giảm chức năng tế bào và tăng nguy cơ bị mắc bệnh. Do đó, vẫn nên tiêu thụ một lượng phù hợp acid béo không no trong chế độ ăn uống hàng ngày.
Acid béo không no là loại axit béo mà trong phân tử của nó có ít nhất một liên kết C=C không bão hòa. Trong liên kết C=C này, hai nguyên tử cacbon chạy song song với nhau và mỗi nguyên tử cacbon kết hợp với một nguyên tử hydro. Sự không no hóa xảy ra khi phân tử có nhiều liên kết C=C, trong khi loại không no đơn giản chỉ có một liên kết C=C.
Cấu trúc không bão hòa của acid béo không no tạo ra sự linh hoạt cho chúng, làm cho chất lỏng tại nhiệt độ thường. Điều này khác với acid béo no, có tất cả các liên kết C-C đều bão hòa, giúp chúng tồn tại ở dạng chất rắn tại nhiệt độ phòng.
Một số ví dụ phổ biến của acid béo không no bao gồm:
1. Axit oleic (C18:1): Đây là loại acid béo không no phổ biến nhất. Nó có một liên kết C=C duy nhất tại vị trí số 9 tính từ đầu dãy carbon. Axit oleic thường được tìm thấy trong các nguồn dầu thực vật như dầu ô liu, dầu hạt cây cải, dầu cây chia và dầu đậu nành.
2. Axit linoleic (C18:2) và axit alpha-linolenic (C18:3): Đây là các axit béo tinh khiết không no có nhiều liên kết C=C. Axit linoleic có hai liên kết C=C tại vị trí số 9 và 12, trong khi axit alpha-linolenic có ba liên kết C=C tại vị trí số 9, 12 và 15. Cả hai axit béo này thường được tìm thấy trong các nguồn dầu thực vật, chẳng hạn như dầu hạt cây ong chúa và dầu hạt lanh.
Acid béo không no có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Chúng có khả năng giảm các mức cholesterol xấu (LDL) trong máu, từ đó giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Chúng cũng có tác dụng chống viêm và ức chế quá trình viêm nhiễm trong cơ thể. Acid béo không no cũng có vai trò quan trọng trong việc duy trì chức năng não bộ và tăng cường hệ miễn dịch.
Tuy nhiên, ánh sáng, nhiệt độ và oxy hóa có thể làm giảm tính chất không no của acid béo, gây thành phần bão hòa, gây ra quá trình oxi hóa và hủy hoại chất này. Do đó, cần lưu trữ và sử dụng acid béo không no đúng cách để duy trì tính chất chất lỏng và lợi ích cho sức khỏe.
Thiết kế mồi chuyên biệt để nhận diện vi tảo nhóm ThraustochytridViệc nhận diện nhóm vi tảo biển dị dưỡng thraustochytrid bằng phương pháp truyền thống còn gặp nhiều khó khăn. Bằng quan sát hình thái dưới kính hiển vi quang học, chín dòng vi tảo được cungcấp bước đầu được xác định là thuộc nhóm thraustochytrid. Trong nghiên cứu này, chín dòng vi tảo này đã được xác định thuộc chi Thraustochytrium và Schizochytrium sử dụng hai cặp mồi được thiết kế dựatrên trình tự vùng gen 18S rDNA của một số loài vi tảo mục tiêu. Trong đó, 2 dòng vi tảo là M19 và D14 thuộc chi Thraustochytrium và 7 dòng còn lại thuộc Schizochytrium dựa vào việc so sánh kết quảphản ứng chuỗi trùng hợp với cặp mồi nhận diện Schizochytrium. Ngoài ra, 3 dòng vi tảo được giải trình tự bằng cặp mồi Thraus-Schi1 với kích thước khoảng 1.000 bp là B3, M6 và D14. Dựa vào phân tíchcây phả hệ và kết quả tìm kiếm trình tự tương đồng từ ngân hàng gen NCBI (National Center for Biotechnology Information), dòng B3 và M6 thuộc chi Schizochytrium và Aurantiochytrium (trong đódòng B3 đồng hình cao với Schizochytrium sp. SKA10 ở mức độ 79% và dòng M6 ở mức 98% với Schizochytrium sp. KRT1), và dòng D14 thuộc chi Thraustochytrium, đồng hình ở mức 93% với Thraustochytrium sp. BP3.2.2. Các cặp mồi được thiết kế trong nghiên cứu này đã giúp nhận diện nhanh các dòng vi tảo thuộc thraustochytrid.
DESIGN OF SPECIFIC PRIMERS FOR THE IDENTIFICATION OF THRAUSTOCHYTRIDS
ABSTRACTMicroalgae possess a numerous concentration in polyunsaturated fatty acid such as Omega 3 and Omega 6, especially docosahexaenoic acid (DHA) and eicosapentaenoic (EPA). Identification ofthese heterotrophic microalgae by traditional method has faced several drawbacks. Throughout this research, 9 given microalgae were identified by molecular technique. As a result, all of these belonged to Thraustochytrium and Schizochytrium groups by testing with group-specific primers designed basing on 18S rDNA regions of target microalgae. Basically, all strains were raustochytrium and Schizochytrium included two Thraustochytrium (strains M19.1 and D14) and seven Schizochytrium by testing with Schizochytrium specific primers. Furthermore, in this research, three microalgae B3, M6 and D14 were sequenced by group-specific primers with approximate 1,000 bp products. The phylogenetic tree illustrated that strain B3 (highly homologous with Schizochytrium sp. SKA10 at 79%) and strain M6 (highly homologous with Schizochytrium sp. KRT1 at 98%) were close to Schizochytrium genus and strain D14 belonged to Thraustochytrium genus with 93% homologous with Thraustochytrium sp. BP3.2.2. In this research, designed primers helped to quickly identify genera of thraustochytrid.
#Acid béo không no #Schizochytrium #Thraustochytrium #vi tảo dị dưỡng #Heteotrophic microalgae #Polyunsaturated fatty acid
Thiếu hụt acid béo thiết yếu ở bệnh nhân mắc bệnh gan mãn tính không được phục hồi bởi việc bổ sung lipid tĩnh mạch ngắn hạn Dịch bởi AI Digestive Diseases and Sciences - Tập 44 - Trang 1342-1348
Mục đích của nghiên cứu này là xác định thành phần triglycerid và acid béo phospholipid trong huyết plasma của những bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng mắc bệnh gan mãn tính và kiểm tra ảnh hưởng của dinh dưỡng tĩnh mạch với hỗn hợp dinh dưỡng toàn phần (TNA) lên những chỉ số này. Chín bệnh nhân trong giai đoạn cuối của bệnh gan mãn tính đã được so sánh với 35 bệnh nhân nhập viện để phẫu thuật electif đối với các khối u ác tính tại đường tiêu hóa trên. Các giá trị phòng thí nghiệm cơ bản và các hồ sơ acid béo trong triglycerid và phospholipid huyết plasma đã được phân tích. Hồ sơ acid béo cũng được thực hiện sau khi truyền TNA bao gồm 33 ± 7 g lipid/24 giờ trong 7.9 ± 4 ngày ở những bệnh nhân mắc bệnh gan mãn tính. So với nhóm bệnh nhân đối chứng, các kết quả phân tích acid béo phospholipid huyết plasma (phần trăm mol tương đối) của các bệnh nhân mắc bệnh gan mãn tính thấp hơn một cách có ý nghĩa ở hai acid béo thiết yếu, acid linoleic (15.4 ± 3.4% so với 20.8 ± 2.9%, P < 0.001) và acid α-linolenic (0.02 ± 0.05% so với 0.08 ± 0.10%, P < 0.001). Những thay đổi tương tự được ghi nhận trong thành phần acid béo của phân đoạn triglycerid. Việc truyền lipid tĩnh mạch ngắn hạn dẫn đến sự gia tăng có ý nghĩa acid linoleic trong phân đoạn triglycerid (9.9 ± 2.8% trước khi bổ sung so với 20.7 ± 9.4% sau khi bổ sung, P < 0.01) và sự giảm acid oleic (38.7 ± 5.2% trước khi bổ sung so với 29.3 ± 7.5% sau khi bổ sung, P < 0.01). Kết luận, sự thiếu hụt cấp tính và mãn tính của acid béo thiết yếu xảy ra ở những bệnh nhân mắc bệnh gan mãn tính. Ý nghĩa lâm sàng của những thiếu hụt này vẫn chưa rõ ràng, nhưng chúng có thể tác động đến chuyển hóa eicosanoid. Việc bổ sung lipid tĩnh mạch ngắn hạn với một lượng khiêm tốn chỉ có tác động tối thiểu đến việc điều chỉnh các acid béo chuỗi dài.
#acid béo thiết yếu #bệnh gan mãn tính #dinh dưỡng tĩnh mạch #triglycerid #phospholipid
Acid béo không bão hòa đa n‐3 trong chế độ ăn ảnh hưởng đến sự phát triển của tăng huyết áp thận mạch ở chuột Dịch bởi AI Molecular and Cellular Biochemistry - Tập 225 - Trang 109-119 - 2001
Hậu quả của việc cung cấp n‐3 PUFA qua chế độ ăn đã được nghiên cứu về sự gia tăng huyết áp (BP) do hẹp động mạch thận trái gây ra ở chuột, được chia thành 3 nhóm (n = 8) được cho ăn trong 8 tuần bằng chế độ ăn bán tinh khiết, bao gồm chế độ ăn đối chứng hoặc chế độ ăn giàu acid béo (acid docosahexaenoic, DHA, hoặc acid eicosapentaenoic, EPA). Việc tiêu thụ PUFA đã gây ra những thay đổi lớn trong hồ sơ acid béo phospholipid ở tim và thận, nhưng không ảnh hưởng đến cân nặng cơ thể, phì đại cơ tim, teo thận trái và phì đại thận phải. Trong vòng 4 tuần, huyết áp tăng từ 120–180 ± 2 mm Hg ở nhóm đối chứng, nhưng chỉ lên đến 165 ± 3 mm Hg ở các nhóm n‐3 PUFA. Sau khi huyết áp được ổn định trong 3 nhóm, chuột được đưa vào một liệu pháp ngắn hạn với liều tăng dần của perindopril. Liều thấp hơn (0.5 mg/kg) làm giảm huyết áp một cách vừa phải chỉ ở nhóm đối chứng. Với các liều cao hơn (1, 5 và 10 mg/kg), huyết áp được điều chỉnh về mức bình thường trong cả 3 nhóm, với biên độ giảm huyết áp lớn hơn ở nhóm đối chứng. Việc tiêu thụ n‐3 PUFA ở mức độ vừa phải có thể giúp ngăn chặn sự phát triển của tăng huyết áp ngoại vi ở chuột thông qua một cơ chế có thể liên quan đến enzyme chuyển đổi angiotensin.
#n‐3 PUFA #tăng huyết áp #động mạch thận #acid béo không bão hòa đa #chuột thí nghiệm
Thành phần acid béo của vi tảo và hướng ứng dụng 800x600 Kết quả phân tích acid béo của 27 chủng vi tảo cho thấy thành phần acid béo của các chủng thì đa dạng và phụ thuộc vào chủng loài. Đặc biệt có một số chủng giàu acid béo thiết yếu α -linolenic (ALA). Đề xuất các chủng phù hợp ứng dụng trong sản xuất thực phẩm chức năng, công nghiệp chế biến thực phẩm sử dụng nhiệt độ cao và sản xuất biodiesel được thảo luận dựa vào thành phần acid béo. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman","serif";}
#vi tảo #acid béo #acid béo no #acid béo không no #acid béo không no nhiều nối đôi.
Nghiên cứu đánh giá thành phần acid béo và sự biến đổi hàm lượng protein va acid amine trong sữa ong chúa bảo quản trong tủ lạnh và điều kiện tự nhiênKết quả phân tích thành phần acid béo cho thấy rằng trong sữa ong chúa có chứa các loại acid béo thiết yếu, các omega-3, omega-6, omega-9... Sữa ong chúa chứa hàm lượng acid béo không no cao (83%) rất tốt cho sức khỏe và tim mạch. Đối với sự biến đổi chất lượng của sữa ong chúa khi bảo quản ở trong tù lạnh 0oC, 5oC và ở nhiệt độ phong 30oC, 40oC, kết quả khảo sát sau thời gian 03 tháng theo dõi liên tục cho thấy hàm lượng protein, acid amin và màu sắc không có sự biến đổi khi bảo quản ở 0oC nhưng có sự biến đổi về các mức nhiệt độ cao hơn.
#Sữa ong chúa #điều kiện bảo quản #amino acid #protein #acid béo không no #omega-3 #omega-6 #omega-9